Thứ Tư, 1 tháng 2, 2017

Sơn Tinh Linh Bảo - Huệ Hoàng Công chúa

徵朝一 公主
Trưng triều nhất vị công chúa
Ngọc phả lục
(山腥伶宝-僡皇公主 Sơn Tinh Linh Bảo – Huệ Hoàng Công chúa)
Cấn chi đệ nhất bộ Thượng đẳng thần. Quốc triều lễ bộ. Chính bản
Nhớ xưa nước Việt ta, từ Vua Hùng dựng nước, trải hơn hai ngàn năm, đến Thục An Dương Vương được hơn năm mươi năm thì Triệu Đà cướp mất nước, cha truyền con nối suốt năm đời. Từ bấy  nước ta nội thuộc Tây Hán và Đông Hán. Hán Quang Vũ sai Tô Định sang làm Thái thú Giao Châu (tức nước Việt). Tô Định là kẻ tham tàn bạo ngược, người người ta oán. Hắn làm cho đất nước ta lầm than, dân ta tưởng hết đường sinh sống.
Thời ấy ở đạo Sơn Tây, phủ Tam Đới, huyện Châu Diên, xã Phấn Thư có người con gái Hùng tướng quân tên là Nàng Trắc là khách anh hùng trong giới nữ lưu, là thánh thần trên cõi thế. Nàng căm giận Tô Định bức giết chồng bà là Thi Sách, bèn cùng em gái là Nàng Nhị xúc tích binh lương, ôm ấp chí lớn. Hiềm vì buổi đầu chưa có người thao lược kỳ tài nhưng vẫn sẵn sàng thu nạp mọi mọi lớp lưu vong, đợi thời vùng dậy. Bà vẫn tin rằng đã có vua tất sẽ có bề tôi, như rồng ẩn dưới núi, không hẹn mà mây vẫn đến, hổ náu mình trong hang núi, không hẹn mà gió vẫn đưa (tiếng gầm đi xa)!
Bấy giờ ở đạo Sơn Nam, phủ Lý Nhân, huyện Thanh Liêm, trang Thanh Liêm có nhà ông Trần Khang, lấy vợ người trang Ngoại Khê, khu Đỗ Xá tên là Phạm Thị Hảo. Sắt Cầm xứng đôi, uyên ương phải lứa. Nhà này ba bốn đời ăn ở thiện tâm. Một đêm bà Phạm Thị mộng thấy trên tòa Phật tại đỉnh núi, có một tảng đá tự nó nứt ra một bé gái. Bà Phạm liền đón lấy, tức thì bé gái biến nhập ngay vào người bà. Bà thấy toàn thân rung động, tâm thần cảm kích. Tỉnh mộng, bà đem chuyện ấy kể với ông Khang chồng bà. Ông Khang đoán rằng: “Đó là điềm lành, chứng tỏ phúc đức nhà ta chưa cạn!” Từ đó bà Phạm Thị có thai. Sau 12 tháng, đến năm Canh Tí, tháng tám, ngày mồng năm, bà sinh hạ một gái, mắt phượng, mày ngài, dung nhan cực kì tươi đẹp, đến một trăm ngày ông bà đặt tên là nàng Linh Bảo, rồi lại giá danh là Sơn Tinh Linh Bảo. Ngày qua tháng lại cho tới trưởng thành, theo đòi học tập, cầm kì thi họa không môn nào không biết, cung tên binh pháp không môn nào là không  tinh thông. Người thời ấy vẫn tôn xưng là bậc kỳ nữ. Đến 16 tuổi, mày cong lá liễu, mặt ánh đào hoa thành bậc nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành. Bấy giờ mối mai ong bướm đầy ngõ, chật sân nhưng cung Hằng Nga vẫn khóa, nhụy ngọc còn phong, duyên trời chưa định chốn. Mãi đến 18 tuổi, nàng định lấy một người cùng trang là Lê Cán nhưng chẳng may, cơn gia biến ách sung ập đến cha mẹ nàng kế nhau mà mất cả. Từ đó gia thế trở lên cô bần, cửa nhà xơ xác, bốn vách gió lùa, ruộng không, cỏ mọc….
Ngày nọ nghe tin đại khởi nghĩa binh ở cửa sông Hát, nàng bèn bái tạ gia đường, lên thẳng Hát môn yết kiến Nàng Trắc. Nàng Trắc thấy nàng là người kỳ tài, bèn phong nàng là Sơn Tinh Linh Bảo – Huệ Hoàng Công chúa, rồi Nàng Trắc truyền hịch đi các quận huyện, cổ võ việc cần vương, diệt giặc. Một thời gian, ứng mộ được hơn bảy vạn nam nữ tướng binh thao lược rồi chọn ngày lập đàn tế thiên địa bách thần. Nàng Trắc khấn nguyện rằng: “Tôi là một người con gái, hằng khổ tâm về nỗi sinh linh lầm than, oán kẻ Bắc quốc là Tô Định thái thú, mang thói chó dê tàn ngược áp bức nhân dân. Thiếp là con cháu họ Hùng không thể đang tâm điềm nhiên ngồi nhìn, bèn khởi nghĩa binh tiêu trừ ác tặc, cúi trông thiên địa bách thần âm phù cho thiếp khôi phục được giang sơn cũ, xin đội đại ơn đại đức thiên địa bách thần muôn vàn.” Lễ xong, cử binh chia đường tiến phát thẳng tới thành Tô Định mở một trận đại chiến, chém được mấy trăm đầu giặc dữ, Tô Định phải trốn chạy về Bắc quốc. Ta thu 65 thành về giang sơn cũ. Nàng Trắc tự lập làm vua, lấy họ Trưng, ấy là Trưng nữ vương. Trưng Vương phong cho em là Trưng Nhị làm Bình Khôi Công chúa, và phong thưởng tướng sĩ theo công lao khác nhau. Phong cho Sơn Tinh Linh Bảo là “Sơn Tinh Linh Bảo Huệ Hoàng Chính cơ Công chúa, lưu tại triều làm phụ chính. Từ bấy thấm nhuần ơn mưa móc, vua tôi quả là duyên hương lửa đằm thắm.
Nàng Sơn Tinh ở lại triều nhậm chức, phàm có bổng lộc đều phân chia hết cho người đồng hương đồng quân. Nàng còn dâng biểu tấu chính xin Trưng vương cho dân trang Thanh Liêm làm dân thần tử và xin miễn cho binh lương thuế khóa các khoản, được Trưng vương chuẩn cho. Từ bấy cả trang Thanh Liêm được hưởng phúc trạch lớn lao nên mọi người đều đinh ninh rằng: Nàng có công với dân như thế, sau này phải nhớ ơn mà thờ phụng chu đáo.
Trưng vương ở ngôi chưa được ba năm thì Phục Ba tướng quân là Hán Mã Viện, cùng Lưu Long và các tướng khác kéo 30 vạn hùng binh sang đánh để rửa nhục cũ, quân thề vang trời. Trưng Vương cùng các tướng tiến quân lên thành Lạng Sơn cự chiến, gần một năm chưa phân thắng phụ. Nhưng vì ta lương ít, binh mỏng bèn lui quân về giữ Cấm Khê. Quân Hán thừa thế, kéo xuống vây thành Cấm Khê rất ngặt. Bà Trưng thấy trước mắt không có lương thảo, sau lưng không có viện binh, lượng thế khó thoát nên bèn cùng tướng sĩ tựa lưng vào thành quyết một trận sống mái. Nào ngờ, giữa cuộc chiến, một trận gió bất ngờ thổi tới làm tốc khăn yếm nữ tướng nữ binh, quân Hán biết thế, liền lũ lượt trần truồng ra mà lăn xả vào đánh, bên ta quả lâm vào thế bất lợi và thua to. Trưng vương cùng Sơn Tinh Linh Bảo cưỡi ngựa phi lên núi rồi không biết đi đâu mất. (Đó là ngày 5 tháng 3).
Than ôi cơ đồ Trưng Vương thế là thành một giấc mộng ngày xuân ngắn ngủi. Duy còn gia thần thị nữ mấy người lần lượt quay về báo cho nhân dân Thanh Liêm trang biết tin đau đớn này. Nhân dân nhớ công ơn của nàng bèn làm lễ, cung kính đề thần hiệu Sơn Tinh Linh Bảo nương và mỹ tự để thờ phụng. Từ đó quốc cầu dân đảo đều rất linh ứng. Các bậc đế vương các triều đại đều gia phong là Thượng Đẳng thần và mỹ tự ngàn năm hương khói phụng thờ, chưa bao giờ dứt mạch.
1. Phong Sơn Tinh Linh Bảo Huệ Hoàng Phổ hóa Chính cơ Công chúa, gia tặng Đoan Chính Trinh thục Thượng Đẳng thần.
Năm Nhâm thân (1572) Hồng Phúc năm thứ 2, tháng 10, ngày lành, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn.
Năm Đinh Tị (1737) Vĩnh Hựu nguyên niên, tháng 10 cát nhật, Quản giám Bách thần Tri điện Hùng Lĩnh Thiếu Khanh Nguyễn Hiền y chính bản phụng tả.
Bùi Văn Cường dịch tặng nhân dân Thanh Liêm trang (1998)

Mùa xuân năm Đinh Dậu (2017), M黄文甲奉抄Hoàng Văn Giáp phụng sao chép.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét