Thứ Tư, 1 tháng 2, 2017

Hùng triều nhị vị Đại vương

雄朝 
Hùng Triều nhị vị Đại vương
Ngọc phả lục
(Cấn chi đệ nhị bộ Thượng đẳng thần)
Nước Việt xưa vua Hùng dựng nghiệp, cha truyền con nối mười tám đời, trải hơn hai ngàn năm, đến đời Hùng Duệ Vương là một ông vua hiền tài, tư chất thần thánh, kế nghiệp lớn ra tay gây dựng bồi đắp cơ đồ tổ phụ, trong thì sửa sang văn trị, ngoài thì chỉnh bị biên cương, ý muốn hưng bình đất nước.
Đương thời ở Sơn Nam đạo, Gia Hưng phủ, Tuấn Sơn động có nhà ông Nguyễn Xương là nhà thi thư hiếu đễ, kết duyên cùng bà Lưu Thị Hạnh người cùng quê, cũng là nhà đời đời giàu mạnh. Vợ chồng ông Nguyễn một bề trung hậu, phàm một ly hai người để lợi mình cũng không hề tơ hào. Phàm mỗi việc cứu người, độ vật thì dù phải gắng hết sức cũng không từ nan. Nhân dân cả vùng đều tôn xưng là nhà tích thiện. Thế nhưng ông bà đã cao tuổi mà vẫn chưa có lấy một mụn gái, trai nên vẫn ngày tháng kém vui.
Một ngày nọ, gặp tiết xuân mát mẻ, nơi nơi hoa nở đầy đất, người người rủ nhau đi thưởng hoa. Ông Xương cùng người anh là Nguyễn Cao chọn ngày lành xuất hành với mấy người tôi tớ, thong dong dắt tay nhau lên chơi núi Tản Viên. Đang leo men sườn núi, bỗng gặp một ông già râu tóc bạc trắng, đầu đội hoa quan, tay cầm trúc trượng, sau lưng theo hầu có mấy đứa tiểu đồng, mang túi thơ bầu rượu, cây đàn và một cái la bàn. Vừa đi vừa ca rằng
Ôi, núi thì cao
Ôi nước thì sâu
Chốn trần ai, ai biết tri âm đâu?
Ôi tri âm, tri âm
Vạn dặm mong tìm
Mong cùng kết bạn
Sánh với cao thâm…
Hai ông nghe thấy lấy làm lạ, cùng bảo nhau: Người này không là lão ông tiên khách chốn Bồng lai, cũng là linh thần nơi Tản Lĩnh, chứ cõi trần sao có người này? Nói rồi cùng nhau đến trước lão ông cúi lạy mà thưa: “Chúng con là lũ sinh ra ở chốn trần gian hèn kém, vẫn hằng mong mỏi có lấy mụn con để chốn mùng màn có người quạt nồng ấp lạnh mà mãi vẫn không có, nay may mắn được gặp tiên ông đây, xin mở rộng lòng thương mà ban cho mảnh phúc địa (huyệt tốt) để kiếm đứa con kế nghiệp. Xin đội đại đức tiên ông muôn vàn."
Lão ông nghe rồi cười mà mà bảo: “Ta không phải là tiên, cũng không phải là thần thánh, chỉ là người riêng ở một cõi nhàn, thân vượt qua vòng tam sinh (theo thuyết nhà phật, con người ta có 3 kiếp sống quá khứ, hiện tại và tương lai). Các người gặp được ta đây cũng bởi nhà các người còn dày phúc đấy. Ta xem một lượt vùng này, chỉ thấy bên cạnh núi này có một huyệt long chầu thủy tụ, bên tả, bên hữu có gò, huyệt quý ở ngôi Nhâm, Bính là tốc phát như lôi (phát nhanh như sấm sét), nếu táng được vào đấy sẽ có ba con là thánh thần. Các ngươi kíp quay về, thu hài cốt tiên nhân, ngày mai nhất thiết mang đến đây ta sẽ đặt cho.”
Hai ông mừng lắm, bái tại lão tiên ông rồi vội vã quay về, lấy hài cốt thân mẫu, đúng giờ dần hôm sau mang đến bên sườn núi đã thấy tiên ông ngồi đó. Hai ông hành lễ bái lạy tiên ông. Tiên ông lấy la bàn chiếu huyệt táng cho. Táng xong, hai ông chưa kịp lạy tạ Tiên ông thì ngài đã biến mất.
Từ bấy, hai ông về nhà đem của cải chẩn cấp cho khách, dốc túi cứu kẻ nghèo đói…. Chưa đầy hai năm, quả nhiên hai phu nhân đều có thai. Mười tháng tròn, năm Nhâm Tí, mùa xuân tháng ba, ngày mồng 5, giờ ngọ nhà người anh sinh một con trai, nhà người em sinh một bọc hai trai, đều là mặt rồng, mắt phượng, cằm én, mày ngài. Cha mẹ hai nhà mừng vui khôn xiết. Rõ ăn ở phúc đức, trời cho phúc địa, có ngày hưng phát! Con người anh đặt tên là Tuấn. Con người em, lớn đặt là tên Sùng, bé đặt tên là Hiển. Từ bấy xuân qua hạ tới, năm tháng thoi đưa chẳng mấy chốc đã trưởng thành, không học mà tự biết, phàm từ thiên văn địa lý không một sự gì không biết, không một vật gì không hay. Bạn bè cùng lứa đều kính phục, đều cho rằng thần đồng xuất thế. Đến 14 tuổi, sự khó sự biến ập đến khôn lường: giữa năm ấy, phụ mẫu hai nhà đều nối nhau mà mất cả, ba anh em gào khóc vang trời, nhưng chẳng sao được nữa, bèn chọn đất tốt an táng cho các cụ rồi sắp xếp phụng thờ đúng nghi lễ. Từ đó gia tài khánh kiệt, sáng vay chiều độ, một đói mười rét, tường xiêu vách đổ, ruộng bỏ cỏ hoang. Ba anh em dắt nhau lên Tản Viên linh sơn, nương nhờ thần nữ Ma Thị Cao, xin làm con nuôi của thần. Sau đó ông Nguyễn Tuấn được vị Thái Bạch Khu Tinh ban cho trúc trượng và sách ước của Long đình Thủy đế để cứu đại họa thế gian và đền đáp ơn sâu của dưỡng mẫu.
Bà Ma Thị thần nữ thấy ông Tuấn là con có hiếu nên lập chúc thư giao toàn bộ đất đai điền thổ vùng Sơn Động cho ông Tuấn. Khi Ma Thị thần nữ mất, ông Tuấn lại chia đất từ Mật sơn về phía tả giao cho ông Sùng coi giữ, từ Nộn Sơn về phía hữu giao cho ông Hiển coi giữ. Lại lập Sùng Công làm Tả Kiên thần (Kiên: vai), ông Hiển Công làm Hữu Kiên thần. Nhân dân vẫn tôn xưng ba ông là Sơn thần.
Lại nữa, thời kỳ ấy ở Sơn Nam đạo, Lý Nhân phủ, Thanh Liêm huyện, Thanh Liêm trang, có nhà tên là Trần Bản lấy vợ cùng trang là Lê Thị Lý. Sắt Cầm phải duyên, uyên ương bén lứa, gác nguyệt hương nồng, giấc bi hoan chợt tỉnh, chày đồng động chốn xuân khuê nồng nàn ân ái…. Rồi thì phu nhân mang thai, đến kỳ đến tháng, năm Ất Mão, mùa thu tháng tám, ngày rằm, thấy trong nhà hương lạ thơm lừng, khí tốt bay về ngan ngát sáng trong. Chính lúc ấy phu nhân sinh hạ một thần nhi, nghiêm trang oai vệ, khí vũ hiên ngang, khác xa vạn thường nhân, lại có chí tung hoành hồ hải (hại!). Người cha quá mừng vui mà chết. Mẹ bèn đặt tên là Lao Láng Công (lấy cái chí giang hồ mà gọi vậy). Năm tháng qua nhanh chẳng mấy chốc mà khôn lớn, theo thầy học đạo, văn chương quán triệt, võ nghệ tinh thông, sử sách Chư tử Bách gia đều lầu thuộc, đặc biệt ông rất say mê đọc binh thư binh pháp. Mỗi khi ngồi nhàn đàm với bè bạn, ông thường nói: “Làm người tai mắt tóc râu, trời cho đứng giữa cõi đời, nên theo gương thánh hiền đời trước mà lập nên công danh, dẫu chốn sa trường da ngựa bọc thây mới đúng cái khí đởm đấng đại trượng phu, cớ sao chỉ lấy việc bút nghiên nhàn nhã làm lẽ sống cho mình”.
Đến 19 tuổi sau khi bà thân mẫu qua đời, ông nghe đồn tại động Tuấn Sơn núi Tản Viên là chỗ trời dựng đất bày, quỷ kinh, thần dạy, huyền diệu tối linh, u minh khôn lường, trên đó có ba anh em Sơn Thánh, có phép thần thông xuất quỷ nhập thần, có tài kinh thiên động địa … bèn từ biệt hương lân, ký thác phần mộ, thu xếp gia đình, đi thẳng tới Tản Viên, yết kiến Sơn Thánh Tuấn Công. Sơn Thánh trông thấy người này là bậc văn võ toàn tài, thông minh xuất chúng thì rất mừng mà rằng: “Giữa chúng ta khó nói ai là anh ai là em, sao lại gặp nhau muộn vậy?” Bèn sai cho về cùng ở với Kiên thần Hiển Công. Từ bấy tương thân tương ái hơn anh em ruột thịt.
Lại rằng: Hùng Duệ Vương sinh 20 con trai, 6 công chúa đều lần lượt qua đời cả. Duy còn hai công chúa một người là Phương Dung công chúa, vua đã gả cho Thanh Công Đồng Tử, còn người thứ hai là Mị Nương công chúa thì cung Hằng Nga còn khóa, nhụy ngọc còn phong, đường lương duyên chưa hẹn chốn nào tác hợp, vua bèn lập lầu kén rể tại thành Phong Châu đất Việt Trì, hẹn ngày thi chọn. Vua lại hạ chiếu cho khắp thần dân ai là người tài trí thông minh, đức độ anh hùng đều được đến dự tuyển.
Nghe chiếu vua, bốn bể động long mong đoạt chức quán quân, sông bến đầy chật thuyền bè, trước lầu nghẽn lối ngựa xe. Văn thi tài, bút múa thành long xà đùa giỡn, đẩy tinh đẩu rụng xuống hàn giang. Võ trận bày hổ báo kinh hồn, xô sấm sét dạt về góc bể. Một cuộc tranh tài anh hung bốn bể, được đó lại thua đây, kết quả cuối cùng chưa chọn được ai là kỳ tài quán thế. Vậy nên ai nấy lại hậm hụi quay về. Thơ đào yêu, đàn cầm sắt chưa ai xứng ngâm xứng họa. Thi nhân có thơ rằng:
Nhất trường gia quốc thôi (催)tình động (
(http://hvdic.thivien.net/whan/%E5%83%8D)
Tứ hải anh hùng lão nhãn ngung ()
Bất giác việt thành xuân tỏa (璅) hạp ()
Vị thùy khải thủ, vị thùy phong ().
Sơn Thánh nghe chuyện, bèn nói với Hiển Công và Lao Láng Công rằng: “Xưa nay giai nhân là hiếm lắm. Làm người nam tử mấy ai may mắn gặp được giai nhân? Huống nay là công chúa, đúng bậc nghiêng nước, nghiêng thành, mà tại lại dung dắng, không chịu xuống núi, đem dây tơ hồng mà cột chân nàng lại, đem nàng về … thì hóa ra ta là kẻ ngu hèn?” Nói rồi cùng hai em xuống núi, thẳng đến kinh thành ứng thí. Vua thấy Sơn Thánh quả là bậc hiền tài bậc nhất thiên hạ, bèn gọi công chúa mà gả cho. Sơn Thánh rước công chúa về Sơn động, lưu Hiển Công và Lao Láng Công ở lại phụ chính giúp vua. Vua xem xét thấy hai ông đều là bậc hùng tài tuấn kiệt đương thời, vua cả mừng nói: “Trời đã vì giang sơn này mà sinh hiền tài để phù nghiệp lớn cho ta vậy!”. Bèn phong Hiển Công làm Hữu đô đài đại phu, Lao Láng Công làm Truy thư hội. Từ bấy hai ông hết lòng giúp vua trị nước. Vua tôi hợp đức, thiên hạ thái bình, trăm họ yên ổn, cuộc sống no đủ, nơi nơi réo rắt đàn ca, đất nước sống trong cảnh thái hòa vui vẻ.
 Trải mấy năm, thấm nhuần ơn mưa móc, vua tôi đằm thắm lửa hương. Lao Lãng Công vẫn thường năng về thăm quê cũ (Thăm Liêm trang) chẩn cấp cho dân, làm cho trang Thanh Liêm trở lên phong phú. Nhân dân vô cùng đội ơn đức của ngài.
Lại nói thời ấy vua Ba Thục là Thục Phán, nghe Hùng Duệ vương có 20 người con trai đều đã mất cả, vua thì tuổi đã cao. Thục Phán liền thừa cơ phát động, cầu viện lân bang chỉnh bị tinh binh mấy vạn, ngựa tốt chín ngàn, chia làm năm đường tiến quân xâm chiếm, toan cướp lấy giang sơn Hùng triều. Một đạo theo đường Bố Chính châu lộ mà tiến, một đạo theo đường Thập Châu Quảng Túc, Quỳnh Nhai, Sơn lộ tiến xuống, một đạo theo đường Tuyên Quang, Tụ Long, Bảo Lạc châu mà ra, một đạo theo đường Ái Châu ra Tam Điệp, một đạo từ Hoan Châu ra Hội Thống theo đường biển mà ra. Quân Thục dựng 5 ngọn cờ lớn giáp công. Từ biên ải năm nơi cấp báo. Một ngày vua bèn triệu Sơn Thánh và chư tướng hồi triều vấn kế. Sơn Thánh tâu rằng: “Đất nước ta hơn hai ngàn năm, trải 17 đời vua hiền thánh, ơn mưa móc đã thấm sâu cốt tủy nhân dân, nay nước giàu quân mạnh, bệ hạ lại uy đức ra bốn biển…. Thục chúa không biết lường sức mà giữ mình, nó sinh sự tức là nó chuốc lấy bại vong, nguy cơ của nó đã rõ. Để khỏi nhọc thánh giá, thần xin cổ võ hiền tài cả nước đứng lên chiến đấu, hẹn ngày chiến thẳng.” Vua hồ hởi chuẩn lời tâu của Sơn Thánh, cử Sơn Thánh làm đại tướng cả năm đạo, lĩnh ấn nguyên soái, quyền nắm thủy bộ quân quan, tùy nghi hành sự. Bấy giờ Hiển Công và Lao Láng Công cùng xin đi đánh giặc. Vua bèn phong Hiển Công làm Hữu tướng, Lao Láng Công làm tham tán quân vụ, hai ông cầm một đạo quân đón đánh quân Thục từ Ái Châu ra. Hai ông phụng mệnh, dẫn quân rời kinh thành một ngày đêm đến Sơn Nam đạo, Lao Láng Công mời Hiển Công cùng về Thanh Liêm trang thăm quê cũ, bái yết gia đường. Ngày ấy dân trang làm lễ chúc mừng và xin được làm dân thần tử. Hai ông ưng thuận, bèn mổ trâu dê mở tiệc lớn khao quân sĩ và dân trang, đem theo người trang này làm gia thần thủ hạ. Xong việc bèn cất quân thủy bộ cùng tiến. Chiêng trống đầu thuyền như sấm sét vang xa ngàn dặm. Cờ quạt đôi bờ như long xà bay lượn rợp đất, đến Ái Châu đánh một trận lớn, quân Thục thua to. Hai ông xua quân đuổi dài, chém được tướng Thục là Đát La ngay trên mình ngựa. Giặc tan, quân ta thu khí giới về kinh báo tiệp. Các mũi khác, Sơn thần và các vị tướng sĩ đều thu toàn thắng. Vua cả mừng, thưởng công lao các thần, các tướng, lại cho hai ông Hiển Công và Lao Láng Công, một người coi Ái Châu, một người coi Sơn Nam đạo với thực ấp vạn hộ. Hai ông lại tâu xin cho dân Thanh Liêm trang làm dân thần tử, cho miễn binh lương mọi sự. Vua chuẩn y. Hai ông bái tạ bệ rồng rồi đi nhậm chức.
Lại nói Lao Láng Công xa giá về quê, mở đại tiệc, khao già trẻ dân trang, lại ban vàng bạc, sai dân mua thêm ruộng đất. Dân mừng vui khôn xiết.
Đến chỗ nhậm chức, Lao Láng Công dạy dân canh tác, khuyến khích nông trang, lấy nhân nghĩa cố kết nhân tâm, lấy sự hòa thuận làm nền cho phong tục, nhân dân thảy đều ca ngợi công đức, xem ông như cha mẹ.
Hiển Công vào Ái Châu, lấy nhân nghĩa vỗ về nhân dân, trộm cướp tự yên, trâu dê thả đầy nơi, tiếng trung cẩn vang về tận kinh thành. Được mấy năm, vua ban chiếu triệu ông về kinh, phong tước Thái Bảo An quốc Công cho ông và triệu Lao Láng Công về triều phong tước Thiếu phó Định quốc công. Bấy giờ trong nước thái bình, bốn phương vô sự. Hai ông bèn dâng biểu xin được đi chu du thiên hạ, thăm thú non sông. Vua cho, còn gia phong tước Đại vương, cho hai ông, khuyên hai ông du hành và cho chọn đất tốt, lập sinh từ để ngày sau hưởng khói hương thờ phụng.
Hai ông bái tại bệ rồng, ra đi như Đế tử Tiên công vui cảnh tha hương cố quốc, lướt núi lướt sông, phất tay áo làm phép lên cao xuống thấp, qua chốn hoa chen rồng cuộn, khi trèo non xanh, khơi nước biếc, khi xem trúc gõ lau khua, khi thơ văn ngợi ca trời đất hòa nhạc phương ca oanh, thanh sắc quả như bồng lai thú vị, vượt trăng gió Ngũ Hồ, tìm vết cũ Tiên ông câu cá, khói mây vạn tượng, sáng ngời trong suốt như gương, lại lướt mây qua thanh sơn thủy tú, sang tây gặp thánh lên bắc gặp thần, mặc sức vào ra một trời phong cảnh. Rồi một ngày nọ trở về Sơn Nam đạo. Lao Láng Công mời Hiển Công về Thanh Liêm trang mở tiệc mừng, nhân dân thảy đều đến bái tạ. Xong việc, hai ông thong dong dạo xem địa thế, thấy có hai ngôi đất thật quý (…) gần dân cư, bèn truyền binh sĩ và nhân dân thiết lập sinh từ, khoanh tường bao, sửa sang mọi sự vừa đúng tháng giêng đầu xuân, hai ông mở đại yến khao vọng cả trang, cho ăn uống ca sát suốt ba ngày. Hiển Công lại ban cho dân 30 hốt vàng để sau này bảo vệ sinh từ. Lao Láng Công lại cố mời Hiển Công cùng nấn ná lưu chơi cỗ này.
Trở lại chuyện Duệ Vương tại vị, đã đến tuổi 105 tự thấy khó trông nom triều chính bèn triệu Sơn Thánh về trao cho ngôi báu. Sơn Thánh tâu: “Cơ đồ nhà Hùng 18 đời, sách trời đã định hạn. Vả chăng Thục vương tuy là Ải Lao bộ chúa nhưng cũng là di phái của họ Hùng, thần xin bệ hạ nhường nước cho vua Thục. Thần có phép thần thông biến hóa, xin rước vua lên cõi Tiên để trường sinh bất lão chả vui sướng hơn ư?”. Vua nghe, bèn nhường nước cho vua Thục, cùng Sơn Thánh thoát trần, vui chốn trời tiên từ bấy.
Vua Thục cảm cái ơn nhường nước của vua Hùng và Sơn Thánh, bèn trùng tu miếu điện trên Nghĩa Lĩnh sơn để thờ phụng Hùng Triều liệt thánh, còn các tướng Hùng triều thảy đều được gia phong tước vị, các anh linh đều được sắc biểu, giao các nơi phụng thờ.
Hai ông Hiển Công và Lao Láng Công đang ở Thanh Liêm trang nghe nói Sơn Thánh và Nhà vua đã hóa, liền than rằng: “Giang sơn nhà Hùng thế là đã sang tay người khác rồi!” bèn cùng mấy chục đinh phu Thanh Liêm trang cùng lên núi Tản Viên dưỡng nhàn. Nào ngờ vừa đi đến chân núi, dừng xa giá nghỉ ngơi, bỗng nhiên tối trời tối đất, chẳng trông thấy gì nữa. Đến khi mưa ngừng, gió tạnh, trời sáng thì hai ông đã hóa rồi. Những con dân Thanh Liêm trang chứng kiến sự lạ ấy về nói lại với dân trang, dân Thanh Liêm trang liền viết thần hiệu và mỹ tự hai ông thờ phụng từ đó (Ngày 5 tháng 12 là ngày mất).
Vua Thục phong Hiển Công là Quý Minh Hiển ứng Đại vương, Lao Láng Công là Lao Láng Linh thông Đại vương và hạ chiếu cho dân Thanh Liêm trang rước sắc về thờ phụng. Từ bấy quốc cầu dân đảo đều linh ứng. Các triều đại đế vương đều có gia phong mỹ tự Thượng đẳng Phúc thần ngàn năm thờ phụng cùng đất nước tồn tại vĩnh hằng.
1) Phong tặng Quý Minh Hiển ứng Đại vương, gia tặng Thông minh Chính trực Hộ quốc Tí dân Thượng đẳng thần.
2) Mệnh vị tôn phong Lao Láng Linh thông Đại vương, gia tặng Công Hoằng Đại Đô, Uy hùng, Thượng đẳng thần.
Năm Hồng Phúc nguyên niên (1572-HV Giáp), tháng bảy mùa thu, ngày lành, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn.
Năm Vĩnh Hựu nguyên niên (1735-HV Giáp) tháng mười mùa đông, ngày lành, Quản giám bách thần tri điện Hùng Lĩnh Thiếu Khanh Nguyễn Hiền sao lại theo bản chính.
Mùa xuân năm Mậu Dần (1998), tháng giêng, Bùi Văn Cường – kính cẩn dịch.
           Mùa xuân năm Đinh Dậu (2017), tháng giêng, Hoàng Văn Giáp – kính cẩn sao chép.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét